Ba lăm.

(Từ bài này, tôi gắn link ảnh minh hoạ ở một số đoạn trong bài viết. Bạn đọc có thể nhấp chuột vào phần text có gạch chân để xem ảnh nhé!)

Ngày mùng 8 tháng Mười năm 2023, Washington DC.

Sau buổi tối đầu tiên gặp Benett, khi rời nhà bạn mình, Thư đã đi loanh quanh ở khu Tháp bút Chì và Đài tưởng niệm Lincoln, tham gia một buổi khiêu vũ salsa bên mặt hồ và xuyên hoàng hôn cùng với hàng chục người xa lạ. Cùng lúc ấy, nàng và Jack gửi tin nhắn qua lại cho nhau để thống nhất về buổi hẹn của ngày hôm sau.

Jack là một người đàn ông hơn bốn mươi tuổi, một thành viên tích cực của cộng đồng Couchsurfing. Anh hứa cho nàng mượn xe đạp và đưa nàng đi chơi ngày hôm sau. Anh cũng rủ rê nàng sau đó cùng anh đến nhà hàng xóm ăn tối, họ sẽ có buổi nhậu với cánh gà.

– Anh có muốn anh em ăn trưa với nhau ngày mai không? Em ngân sách hạn chế nên chắc em sẽ mang đồ ăn hoặc ăn cái gì đó rẻ rẻ – nàng nhắn.
– Để anh kể cho em một chút về anh nhé – tin nhắn của Jack đến – Khi anh đi chu du, rất nhiều người bạn Couchsurfer đã giúp đỡ anh, và họ trả tiền ăn trưa cho anh. Nếu em đồng ý, anh sẽ rất vui lòng trả tiền ăn trưa và ăn tối của em. Thế em muốn ăn gì nào?

Tin nhắn của Jack khiến lòng Thư ấm sáng trong buổi chiều DC trở lạnh. Nàng đáp:
– Vậy em sẽ nhận thịnh tình của anh và em sẽ tiếp tục phát huy truyền thống này cho những người Couchsurfing mà em sẽ đón tiếp tại Việt Nam nhé!
– Tinh thần thế là chuẩn đấy!

“Không có bữa trưa nào là miễn phí” – có ai đó đã nói câu này. Nhưng chẳng đúng tí nào, trong suy nghĩ của Thư. Sự hào hiệp không vụ lợi là có thật, và sự hào hiệp của những người đi trước ở Couchsurfing đã giúp cảm hoá nàng, khiến nàng biết sống thảo tính hơn mà không phải lo lắng rằng làm vậy là thiệt thân.

***

Ngày mùng 9 tháng Mười.

Sau vài ngày ở nhà ông Mark, Thư đã có thể sử dụng đồ đạc nhà ông tự nhiên hơn. “Như một con ruồi”, nàng giải thích, “bởi người Việt Nam coi ruồi là một loài côn trùng không có liêm sỉ”. Vừa giải thích, nàng vừa với lấy hai chai nước trong bếp cho vào cặp. Ông Mark đã dự trữ hàng thùng nước khoáng và rất nhiều loại lương khô, “để chuẩn bị sẵn cho chiến tranh nếu điều ấy xảy ra” theo như lời ông nói. Ông không ngừng lẩm bẩm những kịch bản chiến tranh và câu chuyện “đồng hồ ngày tận thế” (một đồng hồ tượng trưng cảnh báo chiến tranh hạt nhân ở quy mô toàn cầu). Trong khi ông vẫn nhăn nhó với “ngày tận thế”, thì nàng cầm từng gói snack của ông lên và nghĩ xem nàng sẽ ăn loại nào hôm nay.

– Còn cháu, hôm nay cháu định làm gì?
– Cháu sẽ đi gặp một anh này cũng trên Couchsurfing. Ảnh tên Jack, ảnh nói sẽ cho cháu mượn xe đạp và đưa cháu đi vườn bách thú!
– Kế hoạch nghe được đó! Vậy ăn miếng sandwich cá hồi rồi đi đi nhé! – Nói rồi, ông Mark nhanh nhẹn phết kem phô-mai (cream cheese) lên hai lát bánh mì nướng và đặt nhẹ hai miếng cá hồi xông khói, bỏ ra đĩa rồi mang ra bàn ăn.

Dùng bữa sáng xong xuôi, Thư bắt tàu điện ngầm đến nhà Jack. Và sau một hồi đi lạc, điều dường như không thể thiếu trong những phi vụ di chuyển của nàng, thì nàng cũng tìm được đến một căn nhà ống bốn năm tầng tầng nằm ở ngã tư của một con phố yên tĩnh và đối diện một cái cây lá vàng và thân trắng muốt rất đẹp.

– Anh Jack, cái này đã phải nhà anh chưa?
– Giờ thì đúng rồi, chờ tí anh xuống mở cửa nhé!

Người đàn ông người Ecuador xuống đón nàng niềm nở. Anh mời nàng đến một quán phở Việt Nam cách đó không xa. Ăn trưa xong, họ trở về nhà Jack. Đó là một căn nhà vài tầng, mỗi tầng hai phòng ngủ, mỗi phòng ngủ cho một người thuê trọ. Những người thuê ở đây đã trở thành bạn bè của nhau. Ở tầng một – không gian sinh hoạt chung, một cô gái thuê trọ đã trang trí nó theo phong cách Hawaii. Mấy chiếc xe đạp của Jack treo trên tường và đặt rải rác quanh nhà.

Jack làm nghề bán và sửa chữa xe đạp địa hình. Công việc này bắt đầu từ đam mê đạp xe đường trường của anh. Có lần, anh đạp xe nhiều tháng trời xuyên Mỹ. Một ngày nọ, anh phát hiện ra mình có thể sống thiếu đàn bà chứ không thể rời xa xe đạp, nên anh đã làm việc ở một cửa hàng xe đạp tại tiểu bang Virginia, đồng thời tậu thêm vài chiếc xe ở đây. Jack khênh hai chiếc xe đạp ra cửa nhà, chỉnh cho nàng độ cao của yên xe, và họ bắt đầu lái xe đến sở thú.

Sở thú Woodley Park Zoo của năm 2000 mà nàng từng nhớ đến nay đã đổi tên thành Smithsonian National Zoology Park. Chắc là nó nay đã thuộc một phần của hệ thống bảo tàng Smithsonian đồ sộ của thành phố DC. Nó là một điểm nữa nàng đến vì tuổi thơ của mình.

Họ đi loanh quanh một tiếng đồng hồ, rồi tạt sang khu vực tái hiện rừng rậm Amazon. Jack có thể chỉ mặt từng loại cây trong khu này, “Thuộc hết chứ, bởi Amazon là quê anh mà! Cái cây này này, ở Ecuador nhé, nó to lắm!” – anh nhìn cái cây và nở nụ cười hãnh diện.

– Anh đã bao giờ quay lại Ecuador chưa? – nàng hỏi, khi mời anh ăn một gói snack của ông Mark
– Từ hồi sang đây, anh chưa bao giờ quay lại. Nếu anh ra khỏi Mỹ, anh có thể sẽ không bao giờ vào Mỹ được nữa.

Mỹ là miền đất hứa của rất nhiều người. Nhiều người Mexico vẫn bất chấp nguy hiểm vượt biên giới để tới Mỹ mưu sinh. Người Ethiopia, người Châu Á, người Việt, người Ecuador nữa… Trước vẫn thế, và nay dường như vẫn thế. Trong thời gian Jack ở đây, bố anh đã đổ bệnh rồi mất ở quê nhà, anh cũng không thể về tiễn đưa. Mặt khác, vượt qua những khó khăn riêng của mình, Jack vẫn sống vui vẻ, chan hoà và hào hiệp với những người xung quanh và với những người xa lạ. Anh vẫn mời được nàng bữa ăn, vẫn có thể đưa nàng đi đạp xe trong thành phố. Và anh chuẩn bị giới thiệu cho nàng về khu vườn rau của anh nữa – nơi cách nhà anh khoảng mười phút đạp xe.

Ở thành phố DC cũng có những dự án trồng rau công cộng, tựa như thành phố Berkeley. Jack “xếp hàng” một thời gian dài thì cũng được một suất đất. Nó rộng khoảng ba mét vuông, anh trả năm mươi đô la mỗi năm để được trồng trọt. “Thật là một khoản đầu tư hời quá!” – Thư thốt lên. Nàng cũng ước ao giá như nàng có được ba mét vuông đất ở Việt Nam, để nàng tiết kiệm tiền đi chợ. “Ở Việt Nam, em đang phải trả cho một bên này họ trồng theo hướng hữu cơ, giá đã gần sáu mươi đô một tháng rồi. Mà môi trường trồng trọt ở Hà Nội chẳng sạch được như ở đây đâu ý!” – Nàng nghĩ đến dự án rau sạch mà nàng đang đặt theo tháng. “Bởi vì nó đắt, nên em vẫn tự trồng rau tại ban công để em ăn”.

Nàng đi loanh quanh khu vườn cộng đồng của Jack, nhìn các luống rau của những nhà khác. Hoa quả trổ đầy nhưng không ai gặt. Những cây jojoba và hạnh nhân mọc rải rác chờ đến ngày ra quả. Luống rau của Jack trông đến hoang dại, vì hai tháng nay anh không đến chăm. Anh vặt cho mình mấy nắm rau thơm các loại. “Nếu em thích thu hoạch, thì ra ngoài cổng nhé, họ có trồng mấy luống công cộng, ai hái cũng được. Còn không được hái lung tung ở khu của các hộ gia đình!” – Jack hắng giọng khi thấy nàng bắt đầu mon men rờ sang mấy luống rau hàng xóm.

– Jack ạ, có một điều gì đó cực kỳ thú vị khi đi thu hoạch những thứ không phải do mình trồng ra nhé. Em không thể diễn tả được. Nhưng mà em thấy cuộc đời quá là trù phú khi em đi hái lung tung thế này – Thư vừa phân trần, vừa hí hửng bẻ một quả bí ngồi. Nàng đã vặt được vài cọng đậu cove, ba quả táo tàu, một quả cà chua bi, một quả tomatillo và vài cây rau cải ở khu trồng công cộng. – Em sẽ về nấu cho anh một bữa ăn Việt Nam với chỗ này!

Và nàng nấu thật. Nàng làm được một nồi canh cải đủ để đổ vào một chén cơm bé, một bát bảy cọng đậu cove xào một quả cà chua bi, và một chén thịt bacon rán bí ngồi. Nàng bê chúng ra sân nhà Jack, nơi có một chiếc sofa êm đặt dưới hai hàng bóng đèn lãng mạn. “Mời anh ăn mấy món ăn lấy cảm hứng từ Việt Nam nhé!” Nàng hồ hởi. Jack hưởng ứng. Mỗi người gắp được hơn một miếng thì hết bữa. “Cái này tiếng Việt gọi là ‘chẳng bõ dính răng’!” – nàng tranh thủ bổ túc tiếng Việt cho người bạn Ecuador của mình. Nàng mang bát đũa đi rửa, thì đến lúc bữa tối thực sự của họ bắt đầu. Jack đưa nàng sang nhà hàng xóm, nơi những người bạn của anh làm một bữa party cánh gà rán và khoai tây chiên.

***

Thư còn quay lại nhà Jack chơi vào một ngày nữa. Đó là Mười ba tháng Mười, buổi tối cuối cùng nàng ở Mỹ. Jack tổ chức một bữa tiệc chạm khắc bí ngô để chuẩn bị cho Haloween và mời một hội bạn tương đối hùng hậu. “Nếu em không có bí ngô thì bảo anh, để anh mua cho em!” “Không cần đâu, em sẽ tự mua một quả”. Thư đảo vào siêu thị Giant ngay sát nhà, mua một quả bí ngô xinh xắn và rẻ nhất (vì đằng nào nàng cũng có tha được nó về Việt Nam đâu!) Nàng bưng nó đến được nhà Jack thì đã trễ mất gần một tiếng.

Jack và hội bạn đã làm được đến đoạn nạo hết ruột bí và đã vẽ phác hoạ mặt cho bí ngô. Nàng đặt quả bí bé nhỏ của mình lên bàn, bắt đầu làm quen với dụng cụ.

– Kia là Matt – Jack chĩa dao vào một người đàn ông và giới thiệu – còn đây là Alex, Katy, Ashley…
– Cậu có thể làm ơn đặt hộ con dao xuống không hở Jack? – Mọi người cười ầm ĩ

Thư chưa bao giờ được tham gia một bữa tiệc Haloween nào kiểu như vậy. Những hội bạn của nàng ở Việt Nam thông thường chỉ gặp nhau ở quán cafe, đi ăn, cùng lắm là đến nhà nhau ăn cơm. Thi thoảng lắm (tức là một lần mỗi mười lăm hai mươi năm), thì họ có thể có một buổi chụp ảnh lưu niệm nhóm. Những hoạt động ấy làm nàng cảm thấy thật tẻ nhạt, và nàng từ lâu đã thèm khát được tụ tập với hội bạn thân và cùng làm một hoạt động gì mới lạ. Bởi thế, một vụ tụ tập “nạo vét bí ngô” như thế này làm nàng vô cùng phấn khích.

– Các cậu nạo bí ngô thế này được mấy mùa Haloween rồi? – nàng hỏi
– Như Haloween năm nay thì đây là event nạo vét thứ ba của tớ – một anh chàng đáp
– Ít nhất thì mỗi năm một lần ở nhà Jack – một người khác thêm vào
– Phải, nhà Jack thì lắm trò lắm, không chỉ Haloween, mà dịp lễ nào cậu ấy cũng phải đầu têu ra cái gì đó – một người nữa hùa theo

Nàng quay sang Jack với một ánh nhìn thèm muốn. Phải chăng anh chàng này mà sang Việt Nam, nàng có khi sẽ mời anh ở nhà nàng miễn phí cả năm trời chỉ để anh mua vui cho nàng bằng những sự kiện như thế.

Đây là lần đầu tiên Thư nạo bí ngô, vì thế nàng chọn một kiểu dáng dễ dàng và nhanh gọn nhất: một cậu nhóc bí ngô dễ thương và ngố. Chú có một đôi mắt tròn to, nụ cười vô tri với hai chiếc răng nanh nhỏ. Matt thì đang tỉa tót một quả bí nham hiểm. Katy và bạn trai đang hì hục sửa chữa cho quả bí có nụ cười “đáng nhẽ phải là rùng rợn nhưng không hiểu sao…” của họ.

Tất cả bọn họ vừa nghịch ngợm, trêu đùa và cười nói vang một góc phố yên tĩnh của thành phố DC.

“Tất cả xong chưa? Giờ đến màn chụp ảnh được chưa?” – Jack hỏi
“Xong hết rồi, chuẩn bị đến màn thi ăn ảnh nhé!” – mọi người đáp

Thế là họ lũ lượt mang bí ngô của mình đi vào một con ngõ nhỏ tối, đặt chúng trước một bức tường có nhiều hình vẽ graffiti và chụp ảnh lưu niệm với nhau. Chú bí ngô ngố tàu của Thư đứng cạnh những anh chị bí ngô khác, chú ngay ngắn trước ống kính của đoàn nhiếp ảnh gia tự phong mà nở nụ cười hớn hở. “Dễ thương quá! Xinh quá” – Thư vừa chụp ảnh chú vừa xuýt xoa đầy tự hào với kiệt tác mà mình đã nặn ra. Những người xung quanh bấm bụng cười.

mỗi người trong số họ cũng chụp ảnh cùng với bí ngô của mình, thi xem ai đoạt giải ăn ảnh nhất. Thư cũng góp một kiểu. “Cậu phải vừa chụp vừa rung tay nhé!” – Thư hướng dẫn Brian. “Tớ muốn ảnh của tớ phải trông nhoè nhoè” – nói đoạn, nàng bới hết tóc ra đằng trước để che hết mặt.

Chụp xong, nàng ôm quả bí về ngay vì trời đã trở khuya và trưa hôm sau thì nàng đã phải rời khỏi Mỹ. Jack tiễn nàng đến bến tàu điện ngầm. Ở đầu bên kia, ông Mark đang lủi thủi chuẩn bị sẵn sàng ra bến tàu đón nàng, vì đường phố đã rất heo hút. Thành phố DC này giờ mỗi tháng có vài vụ bắn súng chết người; ông không yên tâm để nàng tự đi về đêm khuya. Gương mặt của người nhà báo kỳ cựu chuyên đề tài Trung Đông vẫn buồn rười rượi, khi xung đột giữa Israel và Palestine ngày một căng thẳng…

(Full album ảnh ở đây)